Tài liệu 34-39 trầm cảm, chất lượng giấc ngủ và các yếu tố liên quan ở phụ nữ tuổi mãn kinh tại xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 252
34-39 TRẦM CẢM, CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở PHỤ NỮ TUỔI MÃN KINH TẠI XÃ PHƯỚC HÒA, HUYỆN TUY PHƯỚC,
TỈNH BÌNH ĐỊNH
Phạm Lê Thị Thanh Trúc*, Huỳnh Ngọc Vân Anh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tuổi thọ con người ngày càng gia tăng, số phụ nữ mãn kinh cũng tăng theo, trung bình người
phụ nữ sẽ phải trải qua một phần ba cuộc đời trong giai đoạn mãn kinh. Một trong những vấn đề thường gặp ở
phụ nữ tuổi mãn kinh là rối loạn trầm cảm và rối loạn giấc ngủ. Một vài nghiên cứu đã tìm thấy mối liên quan
đáng kể giữa chất lượng giấc ngủ và rối loạn trầm cảm.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ rối loạn trầm cảm, tỷ lệ chất lượng giấc ngủ kém và các yếu tố liên quan ở phụ nữ
tuổi mãn kinh tại xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định năm 2019.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 279 phụ nữ
trong độ tuổi từ 50-59 trên địa bàn xã ...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 480 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu 34-39 trầm cảm, chất lượng giấc ngủ và các yếu tố liên quan ở phụ nữ tuổi mãn kinh tại xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 252
34-39 TRẦM CẢM, CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở PHỤ NỮ TUỔI MÃN KINH TẠI XÃ PHƯỚC HÒA, HUYỆN TUY PHƯỚC,
TỈNH BÌNH ĐỊNH
Phạm Lê Thị Thanh Trúc*, Huỳnh Ngọc Vân Anh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tuổi thọ con người ngày càng gia tăng, số phụ nữ mãn kinh cũng tăng theo, trung bình người
phụ nữ sẽ phải trải qua một phần ba cuộc đời trong giai đoạn mãn kinh. Một trong những vấn đề thường gặp ở
phụ nữ tuổi mãn kinh là rối loạn trầm cảm và rối loạn giấc ngủ. Một vài nghiên cứu đã tìm thấy mối liên quan
đáng kể giữa chất lượng giấc ngủ và rối loạn trầm cảm.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ rối loạn trầm cảm, tỷ lệ chất lượng giấc ngủ kém và các yếu tố liên quan ở phụ nữ
tuổi mãn kinh tại xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định năm 2019.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 279 phụ nữ
trong độ tuổi từ 50-59 trên địa bàn xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Nghiên cứu được tiến
hành bằng cách phỏng vấn mặt đối mặt tại nhà đối tượng tham gia thông qua bộ câu hỏi soạn sẵn gồm dân số học,
tình trạng sức khỏe, tình trạng mãn kinh, chất lượng giấc ngủ với thang đo PSQI, rối loạn trầm cảm với thang
đo CES-D.
Kết quả: Tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở phụ nữ tuổi mãn kinh là 31,2%, tỷ lệ chất lượng giấc ngủ kém là 57,7%.
Hơn 80% phụ nữ tham gia nghiên cứu đều ở giai đoạn quanh và sau mãn kinh. Có mối liên quan giữa rối loạn
trầm cảm và nhóm tuổi (p=0,022), tình trạng hôn nhân (p <0,001), sử dụng thuốc điều trị (p=0,002), chất lượng
giấc ngủ (p=0,001).
Kết luận: Những người phụ nữ lớn hơn 55 tuổi, không sống cùng chồng, có chất lượng giấc ngủ kém có tỷ
lệ rối loạn trầm cảm cao hơn nhóm phụ nữ không có các yếu tố này.
Từ khóa: rối loạn trầm cảm, chất lượng giấc ngủ, phụ nữ tuổi mãn kinh
ABSTRACT
DEPRESSION, SLEEP QUALITY AND RELATED FACTORS IN MENOPAUSAL WOMEN
IN PHUOC HOA VILLAGE, TUY PHUOC DISTRICT, BINH DINH PROVINCE, VIETNAM
Pham Le Thi Thanh Truc, Huynh Ngoc Van Anh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 252 – 259
Background: The life expectancy of people is increasing, the number of menopausal women also increases.
Women were likely to experience in the one-third of a lifetime. One of the most common roblems with menopausal
women are depression disorder and sleep disorder. Moreover, some studies that found a significant correlation
between depressive disorder and sleep quality.
Objectives: To determine the prevalence of depression, poor sleep quality and related factors in menopausal
women in Phuoc Hoa village, Tuy Phuoc district, Binh Dinh province, Vietnam.
Methods: a cross-sectional study was conducted on 279 women from 50 to 59 years in Phuoc Hoa
village. Participants were interviewed using a structured questionnaire that included demography health
* Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS.Phạm Lê Thị Thanh Trúc ĐT: 0963895383 Email: tructrucpham137@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 253
status, menopause stage; sleep quality and depression. Depressive symptoms and sleep quality were
evaluated based on Center of epidemiologic study depression scale (CES-D) and the Pittsburgh Sleep Quality
Index (PSQI), respectively.
Results: The prevalence of depression disorder was 31.2%. The prevalence of poor sleep quality was 57.7%.
Over 80% of women were in perimenopause and post menopause stage. There is an association between
depressive disorder and age group (p = 0.022), marital status (p <0.001), using drug (p = 0.002), poor sleep
quality (p = 0.001).
Conclusion: The menopause women who have factors including: being over 55 years old, not living with
their husband, having drug-use status, poor sleep quality have a higher rate of depression disorder than women
who don’t.
Keywords: depression disorder, sleep quality, menopausal women
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phụ nữ mãn kinh trên thế giới chiếm tỷ lệ
khá lớn, ước tính đến 2030, dân số của phụ nữ
mãn kinh trên thế giới sẽ là 1,2 tỉ(6). Tại Việt Nam,
độ tuổi trung bình mãn kinh là 55 ± 3(7). Như vậy
nếu tuổi trung bình của thời kỳ mãn kinh là 50
năm và tuổi thọ trung bình của phụ nữ Việt
Nam là 81,1 tuổi thì hầu hết phụ nữ sẽ dành
khoảng một phần ba cuộc đời trong cuộc sống
mãn kinh(19).
Rối loạn trầm cảm là nguyên nhân hàng đầu
làm tăng gánh nặng bệnh tật không tử vong ở
nữ giới tại Việt Nam, nhất là độ tuổi từ 45 – 60
tuổi(23). Phụ nữ mãn kinh có rối loạn trầm cảm là
yếu tố nguy cơ gây tử vong do các bệnh lý tim
mạch, ung thư nói riêng và tỷ lệ tử vong nói
chung(15,23). Chất lượng giấc ngủ và các thành
phần của rối loạn giấc ngủ là yếu tố nguy cơ
quan trọng đối với rối loạn trầm cảm ở phụ nữ
giai đoạn mãn kinh(3,2,21,24).
Tại Việt Nam, một vài nghiên cứu về trầm
cảm, chất lượng giấc ngủ trên đối tượng phụ nữ
mãn kinh đã được tiến hành(11,12). Nghiên cứu tại
Cần Thơ của Nguyễn Thị Ngọc Huyền cho thấy
nguy cơ trầm cảm có liên quan đến tuổi, học
vấn, nghề nghiệp và khả năng lao động(2). Và
hầu hết các nghiên cứu tập trung xác định tỷ lệ
trầm cảm, chất lượng giấc ngủ riêng lẻ, chưa
đánh giá sâu về mối liên quan giữa trầm cảm và
chất lượng giấc ngủ ở phụ nữ mãn kinh.
Xã Phước Hòa là một xã thuộc vùng nông
thôn của huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, với
tỷ lệ nữ giới nhiều, tuổi thọ cao đồng nghĩa
người phụ nữ sẽ trải qua thời kì mãn kinh kéo
dài hơn, vì vậy việc chăm sóc sức khỏe phụ nữ
mãn kinh cần được chú trọng tại địa bàn xã
Phước Hòa. Do đó, chúng tôi tiến hành thực
hiện nghiên cứu với mục tiêu xác định tỷ lệ rối
loạn trầm cảm, chất lượng giấc ngủ (CLGN) kém
và các yếu tố liên quan.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Được thực hiện trên 279 người phụ nữ từ 50
– 59 tuổi tại xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước,
tỉnh Bình Định.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu
Được tính theo công thức ước lượng một tỷ
lệ với xác suất sai lầm loại 1 bằng 0,05 và sai số
biên cho phép là 0,05, hệ số thiết kế 1,5.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Mỹ
Hạnh(12) thì tỷ lệ trầm cảm ở phụ nữ mãn kinh là
37,9% nên chọn p = 0,379, từ đó cỡ mẫu tính
được là 362 người. Theo nghiên cứu của Vũ Thị
Thục Anh(20) thì tỷ lệ CLGN kém là 60,5%, do đó
chọn p = 0,605, từ đó cỡ mẫu tính được là 368
người.
Vậy cỡ mẫu chung cần thiết cho nghiên cứu
là 368 x 1,5 = 552 người. Tuy nhiên, xã Phước
Hòa chỉ có tổng cộng 564 người phụ nữ từ 50–59
tuổi, do đó sau khi hiệu chỉnh cho phù hợp với
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 254
dân số đích(5) thì cỡ mẫu cần thiết cho nghiên
cứu là 279 người.
Phương pháp thực hiện
Những đối tượng được tiếp cận sẽ tiến hành
phỏng vấn bằng phiếu sàng lọc đối tượng, trong
đó đối tượng chọn vào phải thỏa tất cả điều kiện
gồm phụ nữ từ 50 – 59 tuổi, thường trú tại địa
phương hoặc sinh sống hơn 6 tháng, còn tử cung
và hai buồng trứng (thông qua hỏi tiền sử phẫu
thuật, tiền sử bệnh lý phụ khoa), đồng ý tham
gia nghiên cứu. Những đối tượng bị loại khỏi
nghiên cứu nếu có bất kỳ một trong những đặc
điểm như dùng bất kỳ thuốc nội tiết sinh dục
(thông qua hỏi đối tượng có sử dụng thuốc gì
trong 6 tháng qua không? Thuốc dùng điều trị
bệnh gì?); có bệnh lý ác tính, sau phẫu thuật,
bệnh lý nội khoa không còn kiểm soát bằng
thuốc; có tiền sử bệnh tâm thần phân liệt, mắc
các bệnh lý tâm thần, thực thể nặng hoặc để lại
di chứng cản trở việc thực hiện phỏng vấn;
không nói hay hiểu tiếng Việt.
Nghiên cứu lấy mẫu với phương pháp lấy mẫu cụm
nhiều bậc
Bước 1: chọn 20 đội dân trong 38 đội dân
thuộc 10 thôn của xã Phước Hòa:
Xã Phước Hòa có 10 thôn với số phụ nữ
trong độ tuổi từ 50 – 59 là 564 người được phân
bố trong 38 đội. Chọn 20 đội trong 38 đội này.
Như vậy, mỗi đội sẽ có 279/20 = 13,95 người =>
Chọn lấy 14 người mỗi đội. Khoảng cách mẫu
(K) được tính bằng cỡ mẫu chia cho số đội:
564/20 = 28,2, do đó K = 28. Chọn một số ngẫu
nhiên R từ bảng số ngẫu nhiên trong khoảng từ
1 – 28 => chọn số R = 20. Đội đầu tiên được chọn
sẽ có người có số tích lũy chứa số R = 20. Cứ như
vậy, tiếp tục đội tiếp theo là đội có người có số
tích lũy là R+ K và tiếp theo: R+ 2K, R+3K,
R+19K.
Bước 2: Chọn ngẫu nhiên đối tượng trong
mỗi đội. Danh sách phụ nữ từ 50 – 59 tuổi được
lấy từ Hội Phụ nữ xã Phước Hòa, trong danh
sách này các đối tượng được phân ra theo từng
thôn, từng đội dân. Lập danh sách và đánh số
thứ tự các đối tượng trong các đội được chọn
trong bước 1. Rút thăm từ hộp số có chứa các số
thứ tự của 20 đội được chọn. Mỗi đội chọn 14
thăm, từ đó có được danh sách đối tượng phỏng
vấn của mỗi đội. Nếu đối tượng bị loại theo tiêu
chí loại ra hoặc không thỏa tiêu chí chọn vào, bỏ
qua và tiếp tục lấy số tiếp theo của quy luật trên
cho đến khi đủ số mẫu của mỗi đội.
Sử dụng phương pháp phỏng vấn mặt đối
mặt với bộ câu hỏi cấu trúc gồm 56 câu được
chia làm 5 phần: đặc điểm dân số - xã hội - kinh
tế, thông tin liên quan đến tình trạng sức khỏe,
tình trạng mãn kinh, chất lượng giấc ngủ, rối
loạn trầm cảm.
Rối loạn trầm cảm
Được đánh giá thông qua thang đo Center
for epidemiologic study depression scale (CES-
D) là công cụ được tác giả Radoff xây dựng để
tầm soát trầm cảm chủ yếu trong dân số
chung(13). Với 20 câu hỏi đánh giá với 4 sự lựa
chọn, thể hiện 4 mức độ:
0 điểm tương ứng với hiếm khi (không có
hoặc nhỏ hơn 1 ngày),
1 điểm tương ứng với đôi khi (từ 1 – 2 ngày),
2 điểm tương ứng với hầu hết (từ 3 – 4 ngày),
3 điểm tương ứng với toàn bộ (từ 5 – 7 ngày).
Đối với câu hỏi 4, 8, 12, và 16 các câu hỏi này
cần đảo ngược cách tính điểm trước khi tính
tổng điểm.
Những người có tổng điểm theo thang đo từ
16 điểm trở lên thì được xem là có dấu hiệu rối
loạn trầm cảm. Thang đo này cũng đã được
đánh giá độ tin cậy tại Việt Nam với Cronbach’s
alpha là 0,81(16).
Chất lượng giấc ngủ
Được đánh giá qua thang đo Pittsburgh
(PSQI)(4) bao gồm 7 thành phần: chất lượng chủ
quan của giấc ngủ, rối loạn giấc ngủ tiềm tàng,
thời gian ngủ, hiệu quả giấc ngủ thường xuyên,
rối loạn giấc ngủ, sử dụng thuốc ngủ, rối loạn
chức năng vào ban ngày. Tổng điểm của 7 thành
phần là điểm CLGN. Phiên bản PSQI Tiếng việt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 255
cũng đã được lượng giá với tính tin cậy nội bộ
hệ số Cronbach’s alpha là 0,789(17).
Nghiên cứu thử được tiến hành trên 20
người phụ nữ từ 50 – 59 tuổi tại xã Phước Hòa.
Kết quả nghiên cứu có hệ số Cronbach’s alpha
của thang đo PSQI là 0,85; hệ số Cronbach’s
alpha của thang đó CES-D là 0,88.
Phân tích thống kê
Sử dụng tần số và tỷ lệ phần trăm cho các
biến định tính như nhóm tuổi, trình độ học
vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, nguồn
thu nhập, mức độ hài lòng về tình trạng thu
nhập, bệnh mạn tính hiện mắc, điều trị thuốc,
lo lắng về sức khỏe, tình trạng mãn kinh, khám
phụ khoa, thời gian ngủ, tần suất dùng thuốc
ngủ, các rối loạn giấc ngủ, rối loạn chức năng
hoạt động ban ngày, đánh giá CLGN chủ
quan, CLGN theo thang điểm PSQI, tỷ lệ rối
loạn trầm cảm.
Sử dụng trung bình và độ lệch chuẩn mô tả
cho các biến số tuổi, thu nhập hàng tháng.
Dùng trung vị và khoảng tứ phân vị để mô
tả: thời lượng ngủ, điểm số CLGN theo thang
đo PSQI.
Sử dụng phép kiểm chi bình phương hoặc
phép kiểm chính xác Fisher để kiểm định mối
liên quan giữa rối loạn trầm cảm với các biến số.
Sử dụng chỉ số lượng giá mức độ liên quan
bằng số đo tỉ số tỷ lệ hiện mắc (PR) với khoảng
tin cậy 95% (KTC 95%).
Mô hình hồi quy Poisson đa biến được dùng
để xác định các yếu tố thực sự có liên quan đến
rối loạn trầm cảm.
Y đức
Nghiên cứu được thông qua Hội đồng đạo
đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y Dược
TP. Hồ Chí Minh theo quyết định số 158 ký ngày
02/04/2019.
KẾT QUẢ
Trong quá trình thu thập số liệu, chúng tôi
ghi nhận có 285 đối tượng tiếp cận được, trong
đó có 1 đối tượng chưa đủ 50 tuổi (thiếu 2
tháng), 1 đối tượng đã cắt tử cung, 4 người bận
việc chưa hoàn thành bộ câu hỏi phỏng vấn. Kết
quả được trình bày với 279 người thỏa tiêu chí
tham gia vào nghiên cứu.
Bảng 1: Đặc điểm của đối tượng tham gia nghiên
cứu (N=279)
Đặc tính Tần số Tỷ lệ %
Nhóm tuổi:
≤55 tuổi
>55 tuổi
195
84
69,9
30,1
Trình độ học vấn:
Cấp 1 trở xuống
Cấp 2 trở lên
186
93
66,7
33,3
Nghề nghiệp:
Nông dân
Công nhân
Nội trợ
Kinh doanh, buôn bán
Nhân viên văn phòng
Khác
165
52
30
17
11
4
59,1
18,6
10,8
6,1
3,9
1,5
Tình trạng hôn nhân:
Không ùng chồng
Sống cùng chồng
53
226
19,0
81,0
Nguồn thu nhập:
Có
Không
268
11
96,1
3,9
Bệnh mạn tính (có) 183 65,6
Hiện đang điều trị (có) 145 52,0
Lo lắng về sức khỏe (có) 219 78,5
Tình trạng mãn kinh:
Tiền mãn kinh
Quanh mãn kinh
Sau mãn kinh
38
75
166
13,6
26,9
59,5
Kết quả nghiên cứu cho thấy độ tuổi trung
bình của các đối tượng vào khoảng 53,3 ± 4,16
tuổi, chiếm hơn 2/3 số đối tượng tham gia có độ
tuổi từ 55 tuổi trở xuống, có trình độ học vấn từ
cấp 1 trở xuống chiếm 66,7%, hơn một nửa đối
tượng có nghề nghiệp chính là nông dân, sống
chung với chồng chiếm 81,0%, hầu hết các đối
tượng đều đang có nguồn thu nhập. Gần 2/3 các
đối tượng hiện đang mắc ít nhất một bệnh mạn
tính, hơn một nửa đối tượng đang dùng thuốc
điều trị bệnh, hơn 3/4 đối tượng lo lắng về tình
trạng sức khỏe bản thân. Gần 60% đối tượng
tham gia nghiên cứu đang ở giai đoạn sau mãn
kinh (Bảng 1).
Điểm chất lượng giấc ngủ trung vị của đối
tượng là 6 với khoảng tứ phân vị là 2 – 10, trong
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 256
đó điểm thấp nhất là 0 và cao nhất là 18 điểm. Tỷ
lệ CLGN kém (PSQI >5) trong nghiên cứu là
57,7%. Tỷ lệ rối loạn trầm cảm (CES-D ≥16) là
31,2% (Bảng 2).
Bảng 2: Chất lượng giấc ngủ, rối loạn trầm cảm của
đối tượng
Đặc tính Tần số Tỷ lệ %
CLGN (kém) 161 57,7
Rối loạn trầm cảm (có) 87 31,2
Bảng 3: Rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan (N=279)
Đặc tính
Rối loạn trầm cảm
Giá trị p
PR
(KTC 95%) Có Tần số (%) N=87 Không Tần số (%) N=192
Nhóm tuổi:
>55 tuổi
≤55 tuổi
35 (41,7)
52 (26,7)
49 (58,3)
143 (73,3)
0,018
1,56 (1,02 - 2,40)
Trình độ học vấn:
Cấp 1 trở xuống
Cấp 2 trở lên
59 (31,7)
28 (30,1)
127 (68,3)
65 (69,9)
0,784
1,05 (0,67 – 1,65)
Nghề nghiệp:
Nội trợ
Công nhân
Nông dân
Khác
12 (40,0)
13 (25,0)
60 (36,4)
2 (6,2)
18 (60,0)
39 (75,0)
105 (63,6)
30 (93,8)
0,153
0,699
0,100
1
0,63 (0,33 - 1,19)
0,91 (0,56 - 1,47)
0,16 (0,04 - 0,64)
Tình trạng hôn nhân:
Không cùng chồng
Sống cùng chồng
49 (92,5)
38 (16,8)
4 (7,5)
188 (83,2)
<0,001
5,50 (4,07 - 7,42)
Mức thu nhập:
>4 triệu
1-4 triệu
<1 triệu
6 (18,2)
51 (28,7)
30 (44,1)
27 (81,8)
127 (71,4)
38 (58,9)
0,004
c
1
1,55 (1,15 - 2,08)
2,40 (1,33 - 4,32)
Bệnh mạn tính đi kèm:
Có
Không
79 (43,2)
8 (8,3)
104 (56,8)
88 (91,7)
<0,001
5,18 (2,67 - 10,27)
Điều trị:
Có
Không
72 (49,7)
15 (11,2)
73 (50,3)
119 (88,8)
<0,001
4,44 (2,68 - 7,34)
Lo lắng sức khỏe:
Có
Không
81 (37,0)
6 (10,0)
138 (63,0)
54 (90,0)
<0,001
3,70 (1,70 - 8,10)
Giai đoạn mãn kinh:
Tiền mãn kinh
Quanh mãn kinh
Sau mãn kinh
6 (15,8)
21 (28,0)
60 (36,1)
32 (84,2)
54 (72,0)
106 (63,9)
0,012
c
1
1,43 (1,07 - 1,90)
2,03 (1,15 - 3,59)
CLGN:
Kém
Tốt
77 (47,8)
10 (8,5)
84 (52,2)
108 (91,5)
<0,001
5,64 (3,05 - 10,43)
Kết quả phân tích Bảng 3 cho thấy không có
mối liên quan giữa rối loạn trầm cảm với tình
trạng học vấn và nghề nghiệp của đối tượng.
Những đối tượng có độ tuổi >55 tuổi có tỷ lệ rối
loạn trầm cảm bằng 1,56 lần so với những đối
tượng từ 55 tuổi trở xuống, với KTC 95% là 1,02
– 2,40. Tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở những người
hiện không sống chung với chồng (độc thân/ly
thân/ly dị/góa) cao gấp 5,50 lần so với tỷ lệ này
với những người sống chung với chồng, với
KTC 95% là 4,07 – 7,42. Thu nhập của đối tượng
giảm xuống một bậc thì tỷ lệ trầm cảm tăng
thêm 1,55 lần với KTC 95% 1,15 - 2,08. Những
đối tượng có bệnh mạn tính đi kèm, có dùng
thuốc điều trị bệnh, lo lắng về sức khỏe có tỷ lệ
rối loạn trầm cảm cao hơn lần lượt 5,18 lần, 4,44
lần, 3,70 lần. Bên cạnh đó, những đối tượng ở
giai đoạn quanh mãn kinh có tỷ lệ rối loạn trầm
cảm gấp 1,43 lần tỷ lệ này ở đối tượng tiền mãn
kinh với KTC 95% là 1,07 - 1,90, những đối
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 257
tượng ở giai đoạn sau mãn kinh có tỷ lệ rối loạn
trầm cảm gấp 2,03 lần so với đối tượng tiền mãn
kinh với KTC 95% là 1,15 - 3,59. Đồng thời,
những đối tượng có CLGN kém có tỷ lệ rối loạn
trầm cảm tăng gấp 5,64 lần so với những đối
tượng có CLGN tốt, với KTC 75% là 3,05 - 10,43.
Bảng 4: Các yếu tố liên quan đến rối loạn trầm cảm bằng mô hình hồi quy Poisson đa biến (N=279)
Đặc tính Giá trị pthô PRthô (KTCthô 95%) Giá trị phc PRhc (KTChc 95%)
Nhóm tuổi:
>55 tuổi
0,018
1,56 (1,02 - 2,40)
0,022
1,45 (1,05 –2,00)
Tình trạng hôn nhân:
Không sống với chồng
<0,001
5,50 (4,07 - 7,42)
<0,001
3,44 (2,37 –5,00)
Mức thu nhập:
>4 triệu
1 – 4 triệu
<1 triệu
0,004
*
1
1,55 (1,15 - 2,08)
2,40 (1,33 - 4,32)
0,934
1
0,99 (0,73 –1,34)
0,97 (0,53 –1,79)
Điều trị thuốc: Có <0,001 4,44 (2,68 - 7,34) 0,002 2,23 (1,35 – 3,66)
Tình trạng mãn kinh:
Tiền mãn kinh
Quanh mãn kinh
Sau mãn kinh
0,012
*
1
1,43 (1,07 - 1,90)
2,03 (1,15 - 3,59)
0,066
1
1,24 (0,99 –1,56)
1,54 (0,97 –2,44)
CLGN kém <0,001 5,64 (3,05 -10,43) 0,001 2,94 (1,58 –5,46)
Phc: giá trị p hiệu chỉnh, PRhc: PR hiệu chỉnh, KTChc: KTC hiệu chỉnh, *Kiểm định chi bình phương khuynh hướng
Sau khi phân tích bằng mô hình hồi quy
Poisson đa biến cho thấy các yếu tố nhóm tuổi,
tình trạng hôn nhân, sử dụng thuốc điều trị,
CLGN là thực sự có mối liên quan với rối loạn
trầm cảm. Cụ thể với cùng điều kiện như bảng 3:
những đối tượng >55 tuổi có tỷ lệ rối loạn trầm
cảm gấp 1,41 lần so với những đối tượng từ 55
tuổi trở xuống, với KTC 95% là 1,02 – 1,94.
Những người phụ nữ không sống chung với
chồng có tỷ lệ rối loạn trầm cảm gấp 3,41 lần so
với những người sống chung với chồng, với
KTC 95% là 2,34 – 4,95. Những người có sử dụng
thuốc (bao gồm thuốc uống theo toa hoặc tự ý
mua thuốc) có tỷ lệ rối loạn trầm cảm gấp 2,23
lần so với những người không có sử dụng thuốc,
với KTC 95% là 1,35 – 3,66. Những đối tượng có
CLGN kém có tỷ lệ rối loạn trầm cảm gấp 2,90
lần những đối tượng có CLGN tốt, với KTC 95%
là 1,57 – 5,37 (Bảng 4).
BÀN LUẬN
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Độ tuổi trung bình của các đối tượng vào
khoảng 53,3 ± 4,16 tuổi (Bảng 1), tương tự kết
quả nghiên cứu của Vũ Thị Thục Anh tại Bệnh
viện Hùng Vương(20) có độ tuổi trung bình 52,11
± 1,65. Sự khác biệt về trình độ học vấn cũng có
liên quan đến nghề nghiệp khi mà có đến 60%
đối tượng là nông dân, tuy nhiên cũng có đến
gần 20% đối tượng là công nhân. Điều này phù
hợp với bối cảnh nền kinh tế hiện nay tại địa
phương khi mà nền nông nghiệp vẫn chiếm ưu
thế, thì công nghiệp đang dần phát triển. Tình
trạng hôn nhân của các đối tượng nghiên cứu
chủ yếu là sống chung với chồng (bao gồm đã
kết hôn và sống chung nhưng chưa kết hôn)
chiếm 81,0%, thấp hơn so với nghiên cứu tại
Bệnh viện Hùng Vương (91,2%)(20). Tỷ lệ phụ nữ
tuổi mãn kinh có ít nhất một bệnh lý mạn tính
chiếm tỷ lệ cao hơn 60%, tương tự với kết quả
của một số nghiên cứu khác tại Việt Nam và
Trung Quốc(7,20,21). Các đối tượng có sử dụng
thuốc để điều trị bệnh (bao gồm theo toa hoặc tự
ý mua, ở những người có hoặc không có bệnh
mạn tính) chiếm gần 80%.
Trong số các đối tượng tham gia nghiên cứu
thì có hơn 80% là đang ở giai đoạn quanh mãn
kinh và sau mãn kinh. Tỷ lệ này tương đồng với
nghiên cứu tại BV Hùng Vương(20) cao hơn so với
nghiên cứu của Trung Quốc(24). Điều này hoàn
toàn hợp lý với độ tuổi mãn kinh tự nhiên của
phụ nữ Việt Nam.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 258
Tỷ lệ CLGN kém ở đối tượng nghiên cứu
Tỷ lệ CLGN kém trong nghiên cứu là 57,7%
(Bảng 2). Kết quả nghiên cứu này tương đương
với kết quả của các nghiên cứu khác. Nghiên
cứu tại Trung Quốc cho tỷ lệ CLGN kém là 55%,
nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ thì tỷ lệ này là
59,7%(1). Kết quả nghiên cứu này cao hơn so với
một số nghiên cứu tại châu Âu(1,14). Sự khác biệt
này có thể do sự khác biệt về văn hóa và lối sống
giữa người châu Á và Châu Âu.
Tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu
Theo kết quả của nghiên cứu, có 31,2% đối
tượng có rối loạn trầm cảm theo thang đo CES-
D (Bảng 2). Còn nghiên cứu của Nguyễn Ngọc
Huyền và Nguyễn Tấn Đạt(11) với cùng thang
đo CES-D thì tỷ lệ này là 7,3%. Có sự khác biệt
đáng kể giữa kết quả của hai nghiên cứu,
nguyên nhân của sự khác nhau này có thể giải
thích do đối tượng và địa điểm lấy mẫu không
giống nhau.
Thứ nhất, trong nghiên cứu trước, đối tượng
nghiên cứu là phụ nữ từ 40 – 55 tuổi, trong khi
nghiên cứu này đối tượng là phụ nữ từ 50 – 59
tuổi. Khoảng cách tuổi từ 55 – 59 tuổi không
được nghiên cứu trước chú trọng, trong khi đây
là khoảng tuổi đa số đã mãn kinh, cho nên tỷ lệ
trầm cảm cao hơn khoảng tuổi từ 40 - 50 tuổi.
Thứ hai, nghiên cứu trước được thực hiện tại
thành phố Cần Thơ, đặc điểm và điều kiện sống
có sự khác biệt rất lớn so với một xã nông thôn
như Phước Hòa, nên tỷ lệ rối loạn trầm cảm sẽ
có sự khác biệt.
Rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan
Tuổi càng cao thì tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở
phụ nữ tuổi mãn kinh càng tăng(21). Nghiên cứu
chúng tôi cũng tìm thấy được kết quả như vậy
khi mà những người phụ nữ trên 55 tuổi có tỷ lệ
rối loạn trầm cảm gấp 1,45 lần những người nhỏ
tuổi hơn. Những người phụ nữ đã kết hôn có tỷ
lệ rối loạn trầm cảm thấp hơn so với những
người phụ nữ không sống cùng chồng như độc
thân, ly thân/ly dị, góa. Theo nghiên cứu của Li
Fudong tại Trung Quốc(9), tác giả cũng tìm thấy
mối liên quan giữa rối loạn trầm cảm và tình
trạng hôn nhân của phụ nữ tuổi mãn kinh. Việc
sử dụng thuốc để điều trị bệnh có mối liên quan
với rối loạn trầm cảm ở phụ nữ tuổi mãn kinh.
Nghiên cứu này cho thấy những người có sử
dụng thuốc trị bệnh (bao gồm mua theo toa bác
sĩ hoặc tự ý mua uống) có tỷ lệ rối loạn trầm cảm
gấp 2,23 lần so với những người không dùng
thuốc. Một số thuốc có tác dụng phụ là gây trầm
cảm. Theo nghiên cứu tại Trung Quốc(24), kết quả
chỉ ra rằng CLGN kém (PSQI>5) là yếu tố nguy
cơ của rối loạn trầm cảm. Một nghiên cứu khác
tại Phần Lan(18), kết quả cho thấy những người
phụ nữ trong thời kỳ quanh mãn kinh và sau
mãn kinh có CLGN kém thì có tỷ lệ rối loạn trầm
cảm cao hơn những phụ nữ có CLGN tốt.
Nghiên cứu khác của Hadine Joffe(8) cũng cho
thấy những người có tỷ lệ rối loạn trầm cảm có
CLGN kém hơn so với những người không có
rối loạn trầm cảm. Nghiên cứu này cho kết quả
tương tự như các nghiên cứu trước(8,18,24) Những
phụ nữ có CLGN kém (điểm PSQI>5) có tỷ lệ rối
loạn trầm cảm gấp 2,94 lần so với những người
có CLGN tốt (Bảng 3, Bảng 4).
Nghiên cứu được thực hiện trên cộng đồng,
với cỡ mẫu đủ để đại diện cho dân số đích nơi
nghiên cứu, nên kết quả phần nào có sự tin cậy
hơn. Thang điểm PSQI và CES-D được sử dụng
trên nghiên cứu này có độ tin cậy và tính giá trị
cao với giá trị Cronbach’s alpha lần lượt là 0,85;
0,88. Nghiên cứu dùng mô hình hồi quy Poisson
đa biến để xác định các yếu tố liên quan đến rối
loạn trầm cảm, chất lượng giấc ngủ. Mặc dù kết
quả nghiên cứu đã tìm thấy các yếu tố có liên
quan đến rối loạn trầm cảm cũng như giữa rối
loạn trầm cảm và CLGN, tuy nhiên đây là một
nghiên cứu cắt ngang mô tả do đó phần nào hạn
chế khả năng suy diễn mối quan hệ nhân quả
giữa rối loạn trầm cảm và CLGN.
KẾT LUẬN
Những phụ nữ tham gia nghiên cứu chủ yếu
có độ tuổi từ 55 tuổi trở xuống và chủ yếu trong
giai đoạn quanh và sau mãn kinh. Tỷ lệ rối loạn
trầm cảm là 31,2%, CLGN kém có tỷ lệ 57,7%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 259
những người phụ nữ lớn hơn 55 tuổi, không
sống cùng chồng, sử dụng thuốc (tự mua hoặc
theo toa), có CLGN kém có tỷ lệ rối loạn trầm
cảm cao hơn nhóm phụ nữ không có các yếu tố
này. Do đó, gia đình người phụ nữ cũng như
chính quyền địa phương cần tuyên truyền giáo
dục sức khỏe mãn kinh cho những phụ nữ trong
độ tuổi mãn kinh, hội phụ nữ cần có các chính
sách hợp lý hỗ trợ cho người phụ nữ, nhất là
những người phụ nữ sống một mình, lớn tuổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agan K, Ozmerdivenli R, Degirmenci Y, Caglar M (2015)
"Evaluation of sleep in women with menopause: results of the
Pittsburg Sleep Quality Index and polysomnography". J Turk
Ger Gynecol Assoc, 16(3):149-152.
2. Almeida OP, Kylie M, Leon F, et al (2016). "Depressive
symptoms in midlife: the role of reproductive stage". Menopause,
23(6):669-675.
3. Brown JP, Gallicchio L, Flaws JA, et al (2009). "Relations among
menopausal symptoms, sleep disturbance and depressive
symptoms in midlife". Maturitas, 62(2):184-189.
4. Buysse DJ, Reynolds CF, Monk TH, Berman SR, Kupfer DJ
(1989). "The Pittsburgh Sleep Quality Index: a new instrument
for psychiatric practice and research". Psychiatry Res, 28(2):193-
213.
5. Đỗ Văn Dũng (2012). “Phương pháp nghiên cứu khoa học với
phần mềm STATA”. Đại học Y dược TP.HCM, pp.40.
6. Hill K (1996). "The demography of menopause". Maturitas,
23(2):113-127.
7. Hoàng Thị Liên, Lương Thanh Bảo Yến, Võ Văn Thắng, Michael
Dunne, Đoàn Vương Diễm Khánh, Bùi Thức Thắng, et al (2014).
"Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mãn
kinh tại thành phố Huế". Y tế Cộng đồng, pp.33-37.
8. Joffe H, Soares CN, Thurston RC, White DP, Cohen LS, Hall JE
(2009). "Depression is associated with worse objectively and
subjectively measured sleep, but not more frequent awakenings,
in women with vasomotor symptoms". Menopause, 16(4):671-
679.
9. Li F, He F, Li Q, Zhang T, Lin J (2019). "Reproductive history
and risk of depressive symptoms in postmenopausal women: A
cross-sectional study in eastern China". J Affect Disord, 246:174-
181.
10. Liang X, Margolis KL, et al (2017). "Effect of depression before
breast cancer diagnosis on mortality among postmenopausal
women". Cancer, 123(16):3107-3115.
11. Nguyễn Ngọc Huyền, Nguyễn Tấn Đạt (2014). "Trầm cảm và
một số yếu tố liên quan ở phụ nữ giai đoạn mãn kinh". Đại học Y
dược Cần Thơ, pp.29.
12. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Võ Minh Tuấn (2009). "Tỉ lệ và các yếu
tố liên quan của rối loạn trầm cảm ở phụ nữ quanh tuổi mãn
kinh". Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, 13(1):87-91.
13. Radloff LS (1977). "The CES-D scale: A self-report depression
scale for research in the general population". Applied
Psychological Measurement, 1(3):385-401.
14. Reed SD, Newton KM, LaCroix AZ, Grothaus LC, Ehrlich K
(2007) "Night sweats, sleep disturbance, and depression
associated with diminished libido in late menopausal transition
and early postmenopause: baseline data from the Herbal
Alternatives for Menopause Trial (HALT)". Am J Obstet Gynecol,
196(6):593
15. Sun D, Shao H, Li C, Tao M (2014). "Sleep disturbance and
correlates in menopausal women in Shanghai". J Psychosom Res,
76(3):237-241.
16. Thai Thanh Truc, Jones MK, Harris LM, Heard RC (2016).
"Screening value of the Center for epidemiologic studies–
depression scale among people living with HIV/AIDS in Ho Chi
Minh City, Vietnam: a validation study". BMC Psychiatry,
16(1):145.
17. Tô Minh Ngọc, Nguyễn Đỗ Nguyên, Phùng Khánh Lâm,
Nguyễn Xuân Bích Huyền, Trần Thị Xuân Lan (2014). "Thang
đo chất lượng giấc ngủ Pittsburgh phiên bản Tiếng Việt". Y học
TP. Hồ Chí Minh, 18(6):664-668.
18. Toffol E, Nea K, Sofia UA, Sari-Leena H, Timo P (2014). "The
relationship between mood and sleep in different female
reproductive states". BMC Psychiatry, 14:177.
19. Tổng cục thống kê (2017). Kết quả chủ yếu điều tra biến động
dân số và kế hoạch hóa gia đình thời điểm 1/4/2016, Nhà xuất
bản thống kê, Hà Nội.
20. Vũ Thị Thục Anh (2017). Đánh giá chất lượng giấc ngủ ở phụ
nữa 50-55 tuổi tại Bệnh viện Hùng Vương. Luận văn tốt nghiệp
Bác sĩ nội trú, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh,
21. Wang HL, Booth-LaForce C, Tang SM, Wu WR, Chen CH
(2013). "Depressive symptoms in Taiwanese women during the
peri- and post-menopause years: associations with
demographic, health, and psychosocial characteristics".
Maturitas, 75(4):355-360.
22. Wassertheil-Smoller S, Sally S, Judith O, et al (2004). "Depression
and cardiovascular sequelae in postmenopausal women. The
Women's Health Initiative (WHI)". Arch Intern Med, 164(3):289-
298.
23. WHO (2017). "Depression and other common mental disorders:
global health estimates". World Health Organization.
24. Zheng Y, Zhou Y, Zhu J, Hua Q, Tao M (2018). "A simple risk
score based on sleep quality for predicting depressive
symptoms in menopausal women: a multicenter study".
Postgraduate Medicine, 130(2):264-270.
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34_39_tram_cam_chat_luong_giac_ngu_va_cac_yeu_to_lien_quan_9221_2212109.pdf