Tài liệu Stress nghề nghiệp và các yếu tố liên quan ở điều dưỡng bệnh viện Tâm thần Trung ương 2: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 242
33-38 STRESS NGHỀ NGHIỆP VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở ĐIỀU DƯỠNG BỆNH VIỆN TÂM THẦN TRUNG ƯƠNG 2
Nguyễn Thị Thanh Hương*, Huỳnh Ngọc Vân Anh**, Tô Gia Kiên***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Stress nghề nghiệp là vấn đề y tế công cộng. Stress ảnh hưởng đến năng lực chăm sóc của điều
dưỡng (ĐD), qua đó tác động xấu đến sức khỏe người bệnh. Nghiên cứu này xác định tỷ lệ ĐD bị stress tại bệnh
viện (BV) Tâm thần Trung ương 2, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và các yếu tố liên quan đến stress.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành từ tháng 3 đến tháng 6/2018. Chọn
toàn bộ ĐD của BV làm mẫu nghiên cứu. Số liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi tự điền. Stress được đánh giá
bằng Nursing Stress Scale (NSS). Các yếu tố có liên quan đến stress được xác định bằng kiểm định chi bình
phương với giá trị p là 0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê. Tỉ số tỷ lệ hiện mắc (PR...
10 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 28/06/2023 | Lượt xem: 373 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Stress nghề nghiệp và các yếu tố liên quan ở điều dưỡng bệnh viện Tâm thần Trung ương 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 242
33-38 STRESS NGHỀ NGHIỆP VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở ĐIỀU DƯỠNG BỆNH VIỆN TÂM THẦN TRUNG ƯƠNG 2
Nguyễn Thị Thanh Hương*, Huỳnh Ngọc Vân Anh**, Tô Gia Kiên***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Stress nghề nghiệp là vấn đề y tế công cộng. Stress ảnh hưởng đến năng lực chăm sóc của điều
dưỡng (ĐD), qua đó tác động xấu đến sức khỏe người bệnh. Nghiên cứu này xác định tỷ lệ ĐD bị stress tại bệnh
viện (BV) Tâm thần Trung ương 2, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và các yếu tố liên quan đến stress.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành từ tháng 3 đến tháng 6/2018. Chọn
toàn bộ ĐD của BV làm mẫu nghiên cứu. Số liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi tự điền. Stress được đánh giá
bằng Nursing Stress Scale (NSS). Các yếu tố có liên quan đến stress được xác định bằng kiểm định chi bình
phương với giá trị p là 0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê. Tỉ số tỷ lệ hiện mắc (PR) đánh giá mức độ liên quan
với khoảng tin cậy 95%.
Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ stress ĐD là 33,6%, trong đó, 55,4% stress vừa và 44,6% stress nặng. Các yếu
tố liên quan đến stress ĐD bao gồm quá tải công việc, nhóm thu nhập và môi trường làm việc an toàn.
Kết luận: Tỷ lệ stress của ĐD cao, cần cải thiện các yếu tố liên quan để giảm stress cho ĐD.
Từ khóa: stress, điều dưỡng, BV Tâm thần Trung ương 2
ABSTRACT
OCCUPATIONAL STRESS AND ITS CORRELATES IN NURSES WORKING AT THE CENTRAL
PSYCHOLOGICAL HOSPITAL 2
Nguyen Thi Thanh Huong, Huynh Ngoc Van Anh, To Gia Kien
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 242 - 251
Background: Occupational stress is a public health concern. Stress affects nurses’ performance that
negatively impacts on patients’ health. This study identified prevalence of stress and its correlates in nurses
working at the Central Psychiatric Hospital 2, Bien Hoa City, Dong Nai Province.
Method: A cross-sectional study was conducted from March to June 2018. All nurses were invited to join
the study. Data was collected using a self-administered questionnaire. Nursing Stress Scale (NSS) was used to
assess stress. Chi-squared test was used to assess associated factors with stress. A p-value of 0.05 was considered
as a statistical significance. The prevalence ratio was used to measure the strength of association with 95%
confidence interval.
Results: The prevalence of stress was 33.6%, in which, 55.4% was moderate and 44.6% was severe stress.
Work overload, income and safe working environment were associated with stress.
Conclusion: The prevalence of stress in nurse was high. Associated factors should be improved to reduce
stress in nurses.
Keywords: stress, nursing, central psychiatric hospital 2
*Bệnh viện tâm thần Trung Ương 2
**Bộ môn Thống kê y học và Tin học - Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
***Đại học Tổ chức quản lý y tế - Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Huỳnh Ngọc Vân Anh ĐT: 0909 944 845 Email: huynhngocvananh@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 243
ĐẶT VẤN ĐỀ
Stress được Hans Selye định nghĩa theo
thuật ngữ chung là một hội chứng bao gồm
những đáp ứng không đặc hiệu của cơ thể với
kích thích từ môi trường(26). Stress nghề nghiệp là
tình trạng căng thẳng liên quan đến sự mất cân
bằng giữa yêu cầu của công việc và khả năng
của con người(36). Stress có thể là động lực giúp
con người tập trung hơn vào công việc và đạt
được mục tiêu đề ra, tuy nhiên khi công việc quá
tải, áp lực lớn kèm tình trạng stress kéo dài với
cường độ mạnh không những gây ảnh hưởng
xấu đến sức khỏe như mệt mỏi, giảm trí nhớ,
mất tập trung, mất ngủ, làm giảm chất lượng
công việc, mà còn có thể gây ra những tai nạn
lao động đáng tiếc(9). Theo khảo sát của Viện Sức
khỏe và An toàn nghề nghiệp quốc gia Hoa Kỳ
(NIOSH) năm 2007, 40% người được phỏng vấn
cho rằng, stress là nguyên nhân chính khiến
người lao động phải đến vệnh viện (BV)(27). Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO) cũng coi stress nghề
nghiệp là một trong những mối đe dọa nguy
hiểm nhất của thế kỷ XXI(35). Do vậy hiện nay
stress nghề nghiệp đang là vấn đề sức khỏe
được quan tâm ở nhiều quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam. Theo Hiệp hội Lao động
Hoa Kỳ, những nghề dễ gây stress nhất thường
có yếu tố mạo hiểm, ảnh hưởng tới tính mạng
con người. Và nghề điều dưỡng (ĐD) là một
trong những nghề đứng đầu danh sách(18). Trên
thế giới, thực trạng stress ở ĐD làm việc tại các
bệnh viện ngày càng cao, tỷ lệ stress từ dưới 30%
đến trên 40% và tỷ lệ hài lòng với công việc của
họ thấp(1).
Theo khảo sát của Viện Y học lao động và Vệ
sinh môi trường tại một khoa hồi sức cấp cứu,
gần 23% ĐD có điểm stress ở mức cao, 42% có
điểm stress ở mức trung bình, hơn 20% số ĐD
than phiền rằng họ thường xuyên có các biểu
hiện như cảm thấy nhức đầu, có cảm giác lo âu
và căng thẳng tinh thần, giấc ngủ bất thường(19).
Các nghiên cứu về stress ở NVYT nói chung và
stress ở ĐD nói riêng ghi nhận tỷ lệ stress khá
cao; 40,5% ĐD tại BV Chấn thương chỉnh hình
Thành phố Hồ Chí Minh mắc stress(34), ĐD tại
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai tỷ lệ stress lên
đến 79%(5). Theo Tổng liên đoàn Lao động Việt
Nam – Viện Khoa học An toàn và Vệ sinh lao
động tỷ lệ stress ở nhân viên y tế chuyên ngành
tâm thần tương đối cao là 66,7%(12). Stress không
chỉ ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe thể chất, tinh
thần mà thậm chí một số ĐD không chịu nổi dẫn
đến tự sát(26). Ngoài ra, stress còn làm ảnh huởng
một cách tiêu cực đến chất lượng chăm sóc BN,
dẫn đến tỷ lệ BN bị bệnh và nhiễm trùng cao
hơn, đe dọa đến sự an toàn của BN(17).
Bệnh viện Tâm thần Trung ương 2
(BVTTTW2) là bệnh viện chuyên khoa đầu
ngành với chức năng khám chữa bệnh, phòng
bệnh và phục hồi chức năng cho người bệnh tâm
thần ở tuyến cao nhất khu vực phía Nam(3). Theo
thống kê năm 2010, BVTTTW2 tiếp nhận trên
1.300 bệnh nhân nội trú và hàng chục ngàn bệnh
nhân ngoại trú(3). Với số lượng BN lớn, môi
trường làm việc đặc biệt, ĐD tại BVTTTW2 phải
gánh vác khối lượng công việc nhiều, cường độ
làm việc cao, đối mặt với nhiều tình huống bệnh
nặng. Việc thường xuyên chịu áp lực công việc
lớn như vậy có thể khiến ĐD của BV mắc stress
nghề nghiệp cao. Chính vì vậy việc xác định tỷ lệ
mắc stress của ĐD và các yếu tố liên quan là rất
cần thiết, để có thể đưa ra những chiến lược, kế
hoạch, chương trình nhằm cải thiện tình trạng
stress trong công việc, cải thiện tình trạng sức
khỏe cho ĐD nói riêng và nhân viên y tế (NVYT)
nói chung; từ đó nâng cao chất lượng chăm sóc
sức khỏe người bệnh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Được tiến hành trên 252 điều dưỡng tại
BVTTTW2, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu
Áp dụng công thức ước lượng một tỷ lệ với
xác suất sai lầm loại 1(α=0,05), p là trị số mong
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 244
muốn tỷ lệ stress ở ĐD, dựa theo nghiên cứu của
Nguyễn Trung Tần tại BV tâm thần tỉnh Tiền
Giang, tỷ lệ ĐD bị stress là 14,7%(20), sai số biên
cho phép là 0,05. Từ đó tính được cỡ mẫu tối
thiểu là 193 người. Tuy nhiên, dựa vào danh
sách do Phòng Tổ chức cán bộ thuộc BVTTTW2
cung cấp thì tại thời điểm nghiên cứu bệnh viện
có khoảng 252 ĐD. Do đó nhóm nghiên cứu
quyết định sử dụng phương pháp chọn mẫu
toàn bộ.
Phương pháp thực hiện
Sau khi mời đối tượng tham gia vào nghiên
cứu, điều tra viên sẽ giải thích rõ ràng về mục
tiêu của nghiên cứu, đối tượng sẵn sàng tham
gia nghiên cứu sẽ được ký văn bản đồng ý tham
gia và trả lời khảo sát bằng cách tự điền thông
qua bộ câu hỏi soạn sẵn bao gồm các câu về đặc
điểm của đối tượng như tuổi, giới, hôn nhân, số
con, tình trạng sống chung, nhà ở, trình độ
chuyên môn, chức vụ, thâm niên, biên chế, thu
nhập, giờ làm việc, trực đêm, tập huấn, kiêm
nhiệm, quá tải, sự hỗ trợ từ cấp trên/đồng
nghiệp, mối quan hệ với cấp trên, đồng nghiệp,
môi trường làm việc an toàn, yêu thích công
việc, cơ hội thăng tiến, hài lòng về thu nhập, giải
trí. Ngoài ra, đối tượng cũng sẽ được đo lường
stress bằng thang đo NSS có độ tin cậy cũng như
tính giá trị cao. Tuy nhiên, trước khi tiến hành
nghiên cứu chính thức đã thực hiện nghiên cứu
thử trên 30 ĐD để hiệu chỉnh công cụ đo lường.
Kết quả nghiên cứu thử cho thấy hệ số
Cronbach’s alpha của thang đo NSS đạt 0,91, do
đó nhóm nghiên cứu quyết định chọn thang đo
NSS để đo lường tình trạng stress ở điều dưỡng.
Thang đo Nursing Stress Scale (NSS)
Thang đo NSS được phát triển dựa trên 34
tình huống có khả năng gây ra stress thường gặp
nhất trong công việc của ĐD. Thang đo NSS có
hệ số tin cậy cao(7) và đã được nhiều nghiên cứu
sử dụng để đo lường stress ở ĐD(30).
NSS gồm 34 câu hỏi, mỗi câu có 5 phương án
trả lời tương ứng với số điểm từ 0 – 3:
0 (Không bao giờ),
1 (Thỉnh thoảng),
2 (Thường xuyên),
3 (Rất thường xuyên).
Tổng điểm tần suất mắc stress dao động từ 0
đến 102 điểm. Đối tượng được xem là có stress
khi tổng điểm số vượt từ 51 điểm trở lên.
Phân tích thống kê
Sử dụng tần số và tỷ lệ phần trăm để mô tả
cho các biến về đặc yếu tố cá nhân (nhóm tuổi,
giới tính, hôn nhân, số con, sống chung, nơi ở,
chuyên môn, chức vụ, nhóm thâm niên, biên
chế, nhóm thu nhập), yếu tố công việc (giờ làm
việc, trực đêm, tập huấn, kiêm nhiệm quá tải, sự
hỗ trợ từ cấp trên/đồng nghiệp, mối quan hệ cấp
trên, đồng nghiệp, môi trường làm việc an toàn),
yếu tố xã hội (yêu thích công việc, cơ hội thăng
tiến, hài lòng về thu nhập, dành thời gian giải
trí). Tình trạng stress cũng được mô tả bằng tần
số và tỷ lệ %.
Kiểm định chi bình phương được dùng để so
sánh tỷ lệ stress theo các đặc tính của đối tượng.
Kiểm định được xem là có ý nghĩa khi giá trị
p<0,05. Sử dụng số đo tỉ số tỷ lệ hiện mắc PR
(Prevalance Ratio) và khoảng tin cậy 95% để đo
lường mức độ liên quan đến stress. Hồi quy
Poisson đa biến được sử dụng để tìm ra các yếu
tố thực sự có liên quan đến stress từ các yếu tố
có liên quan được tìm thấy ở mô hình đơn biến
trước đó.
KẾT QUẢ
Trong thời điểm tiến hành nghiên cứu có 252
ĐD đang công tác tại bệnh viện nhưng có 5
người trong thời gian nghỉ thai sản do vậy mẫu
thu thập được là 247 người. Số lượng này đạt
hơn 98% tổng số điều dưỡng, do vậy có thể đại
diện cho dân số nghiên cứu và kết quả được
trình bày với thông tin của 247 đối tượng.
Kết quả Bảng 1 cho thấy đối tượng nữ tham
gia nghiên cứu chiếm phần lớn, nhóm tuổi ≥30
chiếm tỷ lệ cao hơn so với nhóm <30 tuổi, trong
đó nhỏ nhất là 22 tuổi và lớn nhất là 58 tuổi.
Những người đã kết hôn chiếm hơn một nữa số
đối tượng, số con chủ yếu từ 1 đến 2 con. Hầu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 245
hết có nhà riêng và sống chung với người thân.
Gần một nửa số đối tượng có trình độ chuyên
môn trung cấp với thâm niên công tác trung
bình là 10,9 ± 7,3 trong đó thời gian làm ngắn
nhất là 1 năm và lâu nhất là 30 năm, nhóm thâm
niêm chiếm tỷ lệ nhiều nhất là từ 5 đến dưới 10
năm. Thu nhập trung bình một tháng là 8,4 ± 1,8
trong đó thu nhập trung bình thấp nhất là 5 triệu
và cao nhất là 15 triệu.
Bảng 1: Đặc điểm cá nhân của đối tượng (n = 247)
Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%) Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%)
Giới tính (nữ) 154 62,3 Trình độ chuyên môn
Nhóm tuổi (≥ 30 tuổi) 194 78,5 Trung cấp 103 41,7
Tình trạng hôn nhân (đã kết hôn) 151 61,1 Cao đẳng 89 36,0
Số con Đại học 55 22,3
Chưa có con 90 36,4 Chức vụ (có) 86 34,8
1 con 59 23,9 Nhóm thâm niên
2 con 87 35,2 < 10 năm 126 51
> 2 con 11 4,5 ≥ 10 năm 121 49
Sống chung (có) 221 89,5 Biên chế (có) 229 92,7
Nơi ở Nhóm thu nhập
Nhà riêng 195 78,9 < 10 triệu 190 76,9
Nhà trọ 52 21,1 ≥ 10 triệu 57 23,1
Bảng 2: Các yếu tố công việc của đối tượng (n = 247)
Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%) Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%)
Nhóm giờ làm việc (>40 giờ/tuần) 204 82,6 Kiêm nhiệm (có) 68 27,5
Trực đêm (có) 204 82,6 Quá tải công việc (có) 98 39,7
Số ngày trực/tuần (n=204) 151 61,1 Cấp trên/đồng nghiệp hỗ trợ (có) 196 79,4
1 ngày 49 24,0 Mối quan hệ tốt với cấp trên (có) 233 94,3
2 ngày 124 68,6 Mối quan hệ tốt với đồng nghiệp (có) 227 91,9
≥ 3 ngày 31 15,2 Môi trường làm việc an toàn (có) 100 40,5
Tập huấn (có) 199 80,6
Kết quả Bảng 2 cho thấy hầu hết các đối
tượng đều được tập huấn nâng cao chất lượng
công tác, được cấp trên hoặc đồng nghiệp hỗ trợ
trong công việc và có mối quan hệ tốt với họ. Đa
số đối tượng có nhóm giờ làm việc >40 giờ/tuần,
số giờ làm việc trung bình một tuần là 57,9 ± 12,7
với thời gian làm việc nhỏ nhất là 35 giờ và lớn
nhất là 80 giờ một tuần. Đa số người tham gia
nghiên cứu có trực đêm, số ngày trực chiếm tỷ lệ
nhiều nhất là 2 ngày một tuần. Hơn 1/3 người có
kiêm nhiệm thêm các chức vụ khác và hơn 1/2 số
người cảm thấy quá tải công việc và môi trường
làm việc không an toàn.
Kết quả Bảng 3 cho thấy được hầu hết các
đối tượng yêu thích công việc hiện tại và ngoài
giờ làm việc họ có dành thời gian cho giải trí.
Tuy nhiên, đa số người tham gia nghiên cứu
cho rằng công việc này không có cơ hội thăng
tiến cũng như không hài lòng với mức thu
nhập hiện tại. Tỷ lệ stress của điều dưỡng theo
thang đo NSS là 33,6%.
Bảng 3: Các yếu tố xã hội của đối tượng (n = 247)
Đặc tính
Tần
số
Tỷ lệ
(%)
Đặc tính
Tần
số
Tỷ lệ
(%)
Yêu thích công
việc (có)
218 88,3
Hài lòng thu
nhập (có)
103 41,7
Cơ hội thăng
tiến (có)
69 27,9
Dành thời gian
giải trí (có)
196 79,4
Các yếu tố liên quan đến stress
Kết quả Bảng 4 cho thấy có mối liên quan
giữa stress với các đặc tính nhóm tuổi và tình
trạng hôn nhân. Cụ thể, những người dưới 30
tuổi có tỷ lệ stress cao gấp 1,67 lần người từ 30
tuổi trở lên, với p=0,007 và KTC 95% là 1,18–2,36.
Người ở nhóm khác (bao gồm độc thân, đã ly
thân hoặc ly hôn) có tỷ lệ stress cao gấp 1,46 lần
nhóm đã kết hôn với p=0,032 và KTC 95% là
1,04-2,07.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 246
Phân tích thống kê cũng cho thấy có sự khác
biệt có ý nghĩa giữa stress với trình độ chuyên
môn và thu nhập trung bình một tháng của đối
tượng, người có trình độ cao đẳng có tỷ lệ stress
cao gấp 2,05 lần người có trình độ trung cấp với
p = 0,001 và KTC 95% từ 1,32 đến 3,18; trình độ
đại học có tỷ lệ stress cao gấp 1,87 lần người có
trình độ trung cấp với p = 0,013 và KTC 95% từ
1,17 đến 3,07. Người ở nhóm có thu nhập trung
bình <10 triệu/ tháng có tỷ lệ stress cao gấp 1,78
lần nhóm có thu nhập ≥10 triệu với p = 0,022 và
KTC 95% là 1,04 - 3,03.
Kết quả Bảng 5 cho thấy có mối liên quan
giữa stress với các đặc tính số giờ làm việc trung
bình một tuần, trực đêm, số ngày trực một tuần,
quá tải công việc, sự hỗ trợ của cấp trên hoặc
đồng nghiệp trong công việc, mối quan hệ tốt
với cấp trên hoặc đồng nghiệp và môi trường
làm việc an toàn. Cụ thể những người làm việc
>40 giờ/tuần có tỷ lệ stress cao gấp 4,16 lần
những người làm ≤40 giờ/tuần với p <0,001 và
KTC 95% là 1,61–11,1. Các đối tượng cảm thấy bị
quá tải công việc có stress cao hơn đối tượng
không cảm thấy điều này gấp 2,19 lần, với p <
0,001 và KTC 95% là 1,54-3,13.
Những người không được sự hỗ trợ trong
công việc từ cấp trên hoặc đồng nghiệp có tỷ lệ
stress cao hơn 1,96 lần những người được hỗ
trợ, với p <0,001 và KTC 95% là 1,40–2,73.
Người không có mối quan hệ tốt với cấp trên
tỷ lệ stress cao hơn người có mối quan hệ tốt
2,02 lần, với p=0,012 và KTC 95% là 1,31–3,12.
Người không có mối quan hệ tốt với đồng
nghiệp tỷ lệ stress cao gấp 1,92 lần người có
mối quan hệ tốt, với p=0,009 và KTC 95% là
1,28–2,88. Và những người cảm thấy môi
trường làm việc không an toàn có tỷ lệ stress
cao gấp 2,85 lần người cảm thấy an toàn, với
p<0,001 và KTC 95% là 1,76-4,62.
Kết quả Bảng 6 cho thấy có mối liên quan
có ý nghĩa thống kê giữa stress và sự yêu thích
công việc. Những người không yêu thích công
việc có tỷ lệ stress cao hơn 1,94 lần người yêu
thích công việc, với p = 0,002 và KTC 95% là
1,34–2,79.
Bảng 4: Các yếu tố cá nhân liên quan đến stress (n=247)
Đặc tính
Stress NSS
Giá trị p PR (KTC 95%) Có Không
Tần số (%) (n = 83) Tần số (%) (n = 164)
Giới tính
Nữ 54 (35,1) 100 (64,9) 0,531 1,12 (0,78 – 1,63)
Nam 29 (31,2) 64 (68,8)
Nhóm tuổi
< 30 tuổi 26 (49,1) 27 (50,9) 0,007 1,67 (1,18 – 2,36)
≥ 30 tuổi 57 (29,4) 137 (70,6)
Tình trạng hôn nhân
Khác * 40 (41,7) 56 (58,3) 0,032 1,46 (1,04 - 2,07)
Đã kết hôn 43 (28,5) 108 (71,5)
Số con
Chưa có con 34 (37,8) 56 (62,2) 1
1 con 18 (30,5) 41 (69,5) 0,371 0,81 (0,51 – 1,29)
2 con 26 (29,9) 61 (70,1) 0,272 0,79 (0,52 – 1,20)
> 2 con 5 (45,5) 6 (54,5) 0,605 1,20 (0,60 – 2,43)
Sống chung
Sống chung với người thân 72 (32,6) 149 (67,4) 0,321 0,77 (0,47 – 1,25)
Sống một mình 11 (42,3) 15 (57,7)
Tình trạng nơi ở
Nhà riêng 19 (36,5) 33 (63,5) 0,531 1,12 (0,78 – 1,63)
Nhà trọ 54 (35,1) 100 (64,9)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 247
Đặc tính
Stress NSS
Giá trị p PR (KTC 95%) Có Không
Tần số (%) (n = 83) Tần số (%) (n = 164)
Trìnhđộ chuyên môn
Trung cấp 22 (26,5) 81 (49,4) 1
Cao đẳng 39 (56,2) 50 (43,8) 0,001 2,05 (1,32 – 3,18)
Đại học 22 (40,0) 33 (60,0) 0,013 1,87 (1,17 – 3,07)
Chức vụ
Có chức vụ 31 (36,1) 55 (63,9) 0,552 1,12 (0,78 – 1,60)
Không có chức vụ 52 (32,3) 109 (67,7)
Nhóm thâm niên
<10 năm 46 (36,1) 80 (63,5) 0,324 1,19 (0,84 – 1,70)
≥10 năm 37 (30,6) 84 (69,4)
Biên chế bệnh viện
Đã vào biên chế 76 (33,2) 153 (66,8) 0,622 0,85 (0,46 – 1,57)
Chưa vào biên chế 7 (38,9) 11 (61,1)
Nhóm thu nhập
< 10 triệu 71 (37,4) 119 (62,6) 0,022 1,78 (1,04 - 3,03)
≥ 10 triệu 12 (21,1) 45 (78,9)
* khác: độc thân, ly hôn, góa
Bảng 5: Các yếu tố công việc liên quan đến stress (n=247)
Đặc tính
Stress NSS
Giá trị p PR (KTC 95%) Có Không
Tần số (%) (n = 83) Tần số (%) (n = 164)
Nhóm giờ làm việc
≤ 40 giờ 4 (9,3) 39 (90,7) <0,001 0,24 (0,09 – 0,62)
>40 giờ 79 (38,7) 125 (61,3)
Trực đêm
Có 79 (38,7) 125 (61,3) <0,001 4,16 (1,61 – 10,8)
Không 4 (9,3) 39 (90,7)
Số ngày trực một tuần (n = 204)
1 ngày 11 (22,5) 38 (77,5) 1
2 ngày 50 (40,3) 74 (59,7) 0,001* 1,58 (1,21 – 2,06)
≥ 3 ngày 18 (58,1) 13 (41,9) 2,50 (1,48 – 4,25)
Tập huấn tại bệnh viện
Có 66 (33,2) 133 (66,8) 0,767 0,94 (0,61 – 1,43)
Không 17 (35,4) 31 (64,6)
Kiêm nhiệm (hành chính, quản lý)
Có 25 (36,8) 43 (63,2) 0,517 1,13 (0,78 – 1,65)
Không 58 (32,4) 121 (67,6)
Quá tải công việc
Có 49 (50,0) 49 (50,0) <0,001 2,19 (1,54 – 3,13)
Không 34 (22,8) 115 (77,2)
Cấp trên/đồng nghiệp hỗ trợ
Có 55 (28,1) 141 (71,9) <0,001 1
Không 28 (54,9) 23 (45,1) 1,96 (1,40 – 2,73)
Mối quan hệ tốt với cấp trên
Có 74 (31,8) 159 (68,2) 0,012 1
Không 9 (64,3) 5 (35,7) 2,02 (1,31 – 3,12)
Mối quan hệ tốt với đồng nghiệp
Có 71 (31,3) 156 (68,7) 0,009 1
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 248
Đặc tính
Stress NSS
Giá trị p PR (KTC 95%) Có Không
Tần số (%) (n = 83) Tần số (%) (n = 164)
Không 12 (60,0) 8 (40,0) 1,92 (1,28 – 2,88)
Môi trường làm việc an toàn
Có 16 (16,0) 84 (84,0) <0,001 1
Không 67 (45,6) 80 (54,4) 2,85 (1,76 – 4,62)
*Kiểm định Chi bình phương khuynh hướng
Bảng 6: Các yếu tố xã hội liên quan đến stress (n=247)
Đặc tính
Stress NSS
Giá trị p PR (KTC 95%) Có Không
Tần số (%) (n = 83) Tần số (%) (n =164)
Yêu thích công việc
Có 66 (30,3) 152 (69,7) 0,002 1
Không 17 (58,6) 12 (41,4) 1,94 (1,34 – 2,79)
Cơ hội thăng tiến
Có 25 (36,2) 44 (63,8) 0,586 1,11 (0,76- 1,62)
Không 58 (32,6) 120 (67,4)
Hài lòng với thu nhập
Có 29 (28,2) 74 (71,8) 0,125 0,75 (0,52 – 1,09)
Không 54 (37,5) 90 (62,5)
Dành thời gian để giải trí
Có 64 (32,7) 132 (67,3) 0,535 0,88 (0,58 – 1,32)
Không 19 (37,3) 32 (62,7)
BÀN LUẬN
Stress và các yếu tố cá nhân của mẫu nghiên cứu
Khảo sát mối liên quan giữa stress và các đặc
điểm dân số xã hội của đối tượng ta thấy có mối
liên quan giữa stress với nhóm tuổi và tình trạng
hôn nhân. Kết quả phân tích cho thấy điều
dưỡng dưới 30 tuổi có stress cao gấp 1,67 lần
điều dưỡng từ 30 tuổi trở lên (p = 0,007). Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của tác giả Trịnh
Hoàng Quý(31). Một nghiên cứu đánh giá stress
trên điều dưỡng tại 41 bệnh viện tại Thượng
Hải, Trung Quốc cũng cho thấy điều dưỡng trẻ
mắc stress cao hơn điều dưỡng lớn tuổi(24). Có
thể do điều dưỡng càng lớn tuổi thì kinh nghiệm
tích lũy càng nhiều do vậy họ ứng phó tốt với
các tình huống khẩn cấp tốt hơn và khả năng
chịu đựng áp lực công việc cao hơn điều dưỡng
trẻ tuổi. Điều dưỡng ở nhóm khác bao gồm độc
thân, đã ly thân/ đã ly dị hoặc góa có tỷ lệ stress
cao gấp 1,46 lần nhóm đã kết hôn, điều này cho
thấy có thể với nhóm chưa có gia đình và nhóm
có yếu tố tổn thương về mặt gia đình có khả
năng stress cao hơn. Những người trong nhóm
này có tỷ lệ stress cao hơn nhóm đã kết hôn có
thể do không có người chia sẻ trong cuộc sống
cũng như công việc, hơn nữa nhóm đã ly thân
hoặc ly dị hoặc góa còn mang gánh nặng tâm lý
khó tránh khỏi do vậy có thể họ stress nhiều
hơn. Tuy vậy, các nghiên cứu của Trần Đăng
Khoa, Vũ Ngọc Trinh, Đỗ Nguyện Nhựt Trần,
Phan Thị Mỹ Linh không tìm thấy mối liên quan
này(5,23,28,34).
Trình độ chuyên môn trên trung cấp có tỷ lệ
stress cao hơn trình độ trung cấp, cụ thể nhóm
có trình độ cao đẳng stress cao gấp 2,05 lần và
trình độ đại học stress cao gấp 1,87 lần so với
nhóm có trình độ trung cấp; có thể do người có
trình độ chuyên môn cao thường phải chịu trách
nhiệm cho những việc quan trọng, và kết quả
này tương đồng với nghiên cứu của Đỗ Nguyễn
Nhựt Trần(5). Ngoài ra những điều dưỡng có
mức thu nhập dưới 10 triệu đồng/tháng cũng có
tỷ lệ stress cao gấp 1,87 lần nhóm có thu nhập từ
10 triệu trở lên, điều này cho thấy khi thu nhập
được cải thiện thì tỷ lệ stress sẽ giảm. Kết quả
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 249
này phù hợp với nghiên cứu của Vũ Ngọc Trinh
và Phạm Quốc Hùng(21,34).
Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa stress và các yếu tố khoa công
tác, chức vụ, thâm niên công tác và biên chế
bệnh viện. Tương đồng với các nghiên cứu của
Trần Đăng Khoa và Trần Thị Hồng Thắm(28,29).
Có thể do những người làm việc lâu năm
thành thạo hơn nhưng người có thâm niên
ngắn và bệnh viện Tâm thần khi tuyển đầu
vào thường chung với các đợt thi công chức
nên hai yếu tố này không ảnh hưởng đến tỷ lệ
stress của điều dưỡng.
Stress và các yếu tố công việc của mẫu nghiên cứu
Nhóm thời gian làm việc, trực đêm và số
ngày trực/tuần có mối liên quan có ý nghĩa với
stress của điều dưỡng (p <0,05). Yếu tố trực đêm
khiến thời gian làm việc trong tuần lớn, điều
dưỡng trực đêm có tỷ lệ stress gấp 4,16 lần
những điều dưỡng không trực và người làm >40
giờ/tuần có tỷ lệ stress cao so với người làm ≥40
giờ với KTC 95% từ 1,61 đến 10,8. Điều dưỡng
trực 2 đến 3 ngày/tuần có tỷ lệ stress cao gấp 1,8
đến 2,59 lần so với người chỉ trực 1 ngày/tuần.
Kết quả này phù hợp với kết quả trong nghiên
cứu của Phạm Văn Tài, Trần Đăng Khoa, Vũ
Ngọc Trinh(22,28,34). Tương tự, một nghiên cứu trên
điều dưỡng tại Nhật cũng chỉ ra rằng thời gian
làm việc quá nhiều là nguyên nhân gây ra tình
trạng áp lực công việc của điều dưỡng(10). Trong
các công việc tại bệnh viện, trực đêm là việc
thường xuyên xảy ra cùng với số lượng ngày
trực nhiều, khiến điều dưỡng thường phải làm
việc quá giờ, không có thời gian để nghỉ ngơi
đầy đủ, dẫn đến mệt mỏi, mất khả năng tập
trung nhưng vẫn phải chăm sóc cho người bệnh
chu đáo, cẩn trọng, do vậy đây là một trong
những yếu tố tác động nhiều đến stress.
Bên cạnh đó các yếu tố quá tải và môi trường
làm việc cũng có mối liên quan với stress
(p<0,05). Nghiên cứu cho thấy các điều dưỡng
cảm thấy công việc quá tải có tỷ lệ stress cao gấp
2,19 lần so với những điều dưỡng không cảm
thấy điều này, kết quả tương đồng với nghiên
cứu của Phạm Quốc Hùng, Phạm Văn Tài, Vũ
Ngọc Trinh(21,22,34). Theo một nghiên cứu cắt
ngang tại New Zealand cũng đã nhấn mạnh
rằng khối lượng công việc ở cường độ cao và
liên tục là những yếu tố góp phần tăng áp lực
công việc cho nhận viên y tế(4). Có rất nhiều
nghiên cứu về stress ở điều dưỡng trên thế giới
như Iceland, Brazil(2,16), cũng tìm thấy quá tải là
một trong những yếu tố liên quan đến stress.
Nghiên cứu cũng tìm thấy việc điều dưỡng cảm
thấy môi trường làm việc không an toàn khiến
họ mắc stress cao hơn gấp 2,85 lần và kết quả
này có ý nghĩa thống kê với KTC 95% từ 1,76
đến 4,62. Tỷ lệ điều dưỡng cảm thấy môi trường
làm vệc không an toàn khá cao so với các nghiên
cứu của Vũ Ngọc Trinh, Phan Thị Mỹ Linh, Đỗ
Nguyễn Nhựt Trần(5,23,34). Tuy nhiên vẫn phù hợp
với những kết luận về mối liên quan giữa yếu tố
môi trường làm việc nguy hiểm đe dọa sức khỏe
và sự an toàn của điều dưỡng với tỷ lệ stress.
Qua đó cho thấy, đối với điều dưỡng tâm thần
ngoài việc phải tiếp xúc vi rút, vi khuẩn, các hóa
chất độc hại, nguy cơ tổn thương bởi các vật sắc
nhọn như những bệnh viện khác, thì yếu tố
nguy hiểm từ bệnh nhân lại có khả năng làm
thúc đẩy stress ở điều dưỡng tâm thần.
Ngoài ra, các yếu tố hỗ trợ từ cấp trên hoặc
đồng nghiệp, mối quan hệ tốt với cấp trên và
đồng nghiệp cũng có liên quan có ý nghĩa thống
kê với stress. Kết quả nghiên cứu cho thấy
những yếu tố này góp phần vào việc giảm tỷ lệ
stress. Đối với những điều dưỡng được hỗ trợ từ
cấp trên, đồng nghiệp trong công việc thì giảm
49% nguy cơ mắc stress so với nhân viên không
có sự hỗ trợ này. Kết quả này tương đồng với
nghiên cứu của Đỗ Nguyễn Nhựt Trần, Vũ Ngọc
Trinh, Trần Thị Hồng Thắm(5,29,34). Nghiên cứu
của Carlos A Lananjeira, Sakineh trong cùng
năm 2011 cũng cho kết quả điều dưỡng thiếu sự
hỗ trợ có tỷ lệ stress cao hơn(8,13). Điều dưỡng có
mối quan hệ tốt với cấp trên cũng giảm 51%
nguy cơ mắc stress so với điều dưỡng không có
mối quan hệ tốt. Kết quả này tương đồng với
nhiều nghiên cứu trong nước như nghiên cứu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 250
của Phan Thị Mỹ Linh, Vũ Ngọc Trinh, Trần
Đăng khoa, Trương Đình Chính(23,28,32,34). Và một
số nghiên cứu nước ngoài của Knezevic(11),
Milutinovic(15), Yueh-Chi Tsai(33), đều cho thấy có
mối liên quan giữa tỷ lệ stress của điều dưỡng
với tình trạng ức chế trong quan hệ với cấp trên.
Mối quan hệ với đồng nghiệp cũng có mối liên
quan với tỷ lệ điều dưỡng có stress, cụ thể điều
dưỡng không có mối quan hệ tốt có stress cao
gấp 1,92 lần người có mối quan hệ tốt. Kết quả
này tương đồng với nghiên cứu của Vũ Ngọc
Trinh và Phạm Văn Tài(22,34).
Stress và các yếu tố xã hội của mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu cho thấy phần đông điều dưỡng
yêu thích công việc hiện tại của mình (88,3%),
tương đồng với kết quả của Phạm Quốc Hùng
trên điều dưỡng bệnh viện Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh (80,8%)(21), và là tỷ lệ
khá cao so với nghiên cứu của nhóm tác giả
Dương Thành Hiệp, Trần Thanh Hải, Tạ Văn
Trầm chỉ có 27,2% điều dưỡng hứng thú với
công việc của mình(6). Tuy số người yêu thích
công việc cao nhưng có đến 72,1% điều dưỡng
cho rằng công việc của họ không có nhiều cơ hội
thăng tiến, tỷ lệ này thấp hơn nghiên cứu trên
điều dưỡng, hộ sinh tại Bến Tre (90,7%)(6), có thể
do làm việc tại bệnh viện trung ương nên có một
phần không nhỏ điều dưỡng cảm thấy có cơ hội
để thăng tiến nhiều hơn. Bên cạnh đó, hơn một
nửa số điều dưỡng tham gia nghiên cứu không
hài lòng với thu nhập hiện tại (58,3%), tỷ lệ này
thấp hơn nghiên cứu tại Bến Tre (77,6%)(6) và tại
Cần Thơ (74,3%)(14), dựa vào mức thu nhập trung
bình hàng tháng ở bệnh viện tâm thần đa phần ở
mức trung bình, thậm chí 10,9% ở nhóm thu
nhập cao nên việc hài lòng với mức thu nhập cao
hơn so với nghiên cứu khác là hợp lý. Ngoài ra,
điều dưỡng có dành thời gian giải trí ngoài giờ
làm việc chiếm tỷ lệ cao (79,4%), kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của Phạm Quốc Hùng
(77,5%)(21), cân bằng thời gian giữa công việc và
thư giãn giải trí có thể là yếu tố giúp thích nghi
với các tình huống stress.
Nghiên cứu này sử dụng thang đo NSS đã
được chuẩn hóa, có độ tin cậy, tình giá trị cao và
đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu trên
thế giới và Việt Nam. Tuy nhiên, thiết kế cắt
ngang mô tả nên việc xác định nhân quả chưa
được làm rõ. Sai lệch hồi tưởng đối với những
câu hỏi mang tính gợi nhớ, đánh giá chủ quan
của đối tượng nghiên cứu là một trong những
hạn chế của nghiên cứu này.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này giúp cho các cấp quản lý,
ban lãnh đạo ngành y tế nói chung và Bệnh viện
Tâm thần Trung ương 2 nói riêng có cái nhìn
toàn diện về tình trạng stress của người điều
dưỡng. Cụ thể tỷ lệ stress của điều dưỡng tại
đây là 33,6% một con số khá cao, và có nhiều
tương đồng với các nghiên cứu trước đã thực
hiện trên cùng đối tượng. Kết quả nghiên cứu
cho thấy những người có thu nhập trung bình
dưới 10 triệu một tháng, cảm thấy công việc quá
tải và môi trường làm việc không an toàn thì
stress càng cao. Từ những điều này, ban lãnh
đạo bệnh viện nên chi trả thêm phụ cấp cho điều
dưỡng làm việc ngoài giờ, thêm giờ; thi đua,
khen thưởng hàng tháng, nhằm tăng thu nhập
và góp phần cải thiện đời sống nhân viên và qua
đó đã khuyến khích họ tăng năng suất lao động,
tăng cường chất lượng dịch vụ y tế. Cho nhân
viên nghỉ phép, nghỉ bù giữa những đợt làm
việc căng thẳng để phục hồi sức khỏe, tránh tình
trạng kiệt sức vì làm quá nhiều, quá tải công
việc. Đảm bảo môi trường làm việc an toàn hơn
và quản lý sức khỏe của điều dưỡng nói riêng và
nhân viên y tế nói chung. Và cuối cùng chính
bản thân người điều dưỡng cần quản lý thời
gian của mình một cách có hiệu quả, làm chủ
công việc của bản thân, sắp xếp thời gian làm
việc và nghỉ ngơi hợp lý. Biết “từ chối” công việc
và dành thời gian cho bản thân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aiken LH, Clarke SP, Sloane DM, et al (2001). Nurses' reports on
hospital care in five countries. Health Aff, 20(3):43-53.
2. Al-Makhaita HM, Sabra AA., Hafez AS (2014). Predictors of
work-related stress among nurses working in primary and
secondary health care levels in Dammam, Eastern Saudi Arabia.
Journal of Family & Community Medicine, 21(2):79-84.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 251
3. Bệnh viện Tâm thần Trung ương 2 (2017). Giới thiệu về bệnh
viện. URL:
4. Chambers CN, Frampton CM, Barclay M, et al (2016). Burnout
prevalence in New Zealand's public hospital senior medical
workforce: a cross-sectional mixed methods study. BMJ Open,
6(11):e013947.
5. Đỗ Nguyễn Nhựt Trần (2008). Stress công việc và các yếu tố liên
quan ở nhân viên y tế huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai năm
2008. Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Y tế Công cộng, Đại học Y Dược
TP. Hồ Chí Minh.
6. Dương Thành Hiệp, Trần Thanh Hải, Tạ Văn Trầm (2014). Tỷ lệ
điều dưỡng, nữ hộ sinh bị stress nghề nghiệp tại bệnh viện
Nguyễn Đình Chiểu, tỉnh Bến Tre năm 2014. Y học TP. Hồ Chí
Minh, 18(S5):190-196.
7. French SE, Lenton R, Walters V, et al (2000). An empirical
evaluation of an expanded Nursing Stress Scale. J Nurs Meas,
8(2):161 - 178.
8. Gholamzadeh S, Sharif F, Rad FD (2011). Sources of
occupational stress and coping strategies among nurses who
work in Admission and Emergency Departments of Hospitals
related to Shiraz University of Medical Sciences. Iranian Journal
of Nursing and Midwifery Research, 16(1):41-46.
9. Han K, Trinkoff AM, Storr CL, et al (2012). Comparison of job
stress and obesity in nurses with favorable and unfavorable
work schedules. J Occup Environ Med, 54(8):928-32.
10. Kitaoka K, Masuda S (2013). Academic report on burnout
among Japanese nurses. Jpn J Nurs Sci, 10(2):273-9.
11. Knezevic B, Milosevic M, Golubic R, et al (2011). Work-related
stress and work ability among Croatian university hospital
midwives. Midwifery, 27(2):146-53.
12. Lại Thị Tuấn Việt, Nguyễn Thu Hà, Trần Văn Đại, et al (2015).
Nghiên cứu ảnh hưởng của stress với chỉ số khả năng làm việc
ở nhân viên y tế chuyên ngành tâm thần. URL:
huong-cua-stress-voi-chi-so-kha-nang-lam-viec-o-nhan-vien-y-
te-chuyen-nganh-tam-than.
13. Laranjeira CA (2012). The effects of perceived stress and ways of
coping in a sample of Portuguese health workers. J Clin Nurs,
21(11-12):1755-62.
14. Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân, Trần Trúc Linh (2008), Tình
hình stress nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng. Y học TP. Hồ
Chí Minh, 12(S4):216-220.
15. Milutinovic D, Golubovic B, Brkic N, et al (2012). Professional
stress and health among critical care nurses in Serbia. Arh Hig
Rada Toksikol, 63(2):171-80.
16. Mosadeghrad AM (2013). Occupational Stress and Turnover
Intention: Implications for Nursing Management, International
Journal of Health Policy and Management, 1(2):169-176.
17. Nantsupawat A, Nantsupawat R, Kunaviktikul W, et al (2016).
Nurse Burnout, Nurse-Reported Quality of Care, and Patient
Outcomes in Thai Hospitals. J Nurs Scholarsh, 48(1):83-90.
18. Neylan TC, Metzler TJ, Henn-Haase C, et al (2010). Prior night
sleep duration is associated with psychomotor vigilance in a
healthy sample of police academy recruits. Chronobiol Int,
27(7):1493-508.
19. Nguyễn Hồng Vỹ (2007). Nguy cơ stress tăng cao ở nhân viên y
tế. URL:
20. Nguyễn Trung Tần (2012). Stress của nhân viên y tế tại bệnh
viện tâm thần Tiền Giang. Luận văn thạc sĩ tâm lý y học, Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
21. Phạm Quốc Hùng (2015). Stress và những yếu tố nghề nghiệp
liên quan ở hộ sinh làm việc tại bệnh viện Hùng Vương TP. Hồ
Chí Minh. Luận án Chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược TP. Hồ
Chí Minh.
22. Phạm Văn Tài (2017). Tỉ lệ stress của nhân viên y tế tại bệnh
viện quận 11 thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ Y tế công
cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
23. Phan Thị Mỹ Linh (2005). Các yếu tố trong công việc thường
gây ra stress và hậu quả của nó đối với nhân viên y tế tại bệnh
viên đa khoa Sài Gòn, quận 1, TP. Hồ Chí Minh tháng 6/2005.
Luận văn tốt nghiệp cử nhân Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP.
Hồ Chí Minh.
24. Purcell SR, Kutash M, Cobb S (2011). The relationship between
nurses' stress and nurse staffing factors in a hospital setting. J
Nurs Manag, 19(6):714-20.
25. Rosnawati MR, Moe H, Masilamani R, et al (2010). The Bahasa
Melayu version of the Nursing Stress Scale among nurses: a
reliability study in Malaysia. Asia Pac J Public Health, 22(4):501-6.
26. Selye H (1976). Stress in health and disease. Butterworth Boston,
https://www.scirp.org/(S(351jmbntvnsjt1aadkposzje))/reference/
ReferencesPapers.aspx?ReferenceID=1159667.
27. The National Institute for Occupational Safety and Health
(1999). Stress at work, DHHS (NIOSH) Publication. URL:
https://www.cdc.gov/niosh/docs/99-101/.
28. Trần Đăng Khoa (2013). Stress và các yếu tố liên quan ở nhân
viên điều dưỡng tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương năm
2013. Luận tốt nghiệp cử nhân Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP.
Hồ Chí Minh.
29. Trần Thị Hồng Thắm (2014). Stress và đối phó stress của điều
dưỡng lâm sàng tại bệnh viện Chợ Rẫy. Luận văn Thạc sĩ Điều
dưỡng, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
30. Trần Thị Ngọc Mai (2014). Thực trạng stress nghề nghiệp của
điều dưỡng lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại
trường Đại học Thăng Long và Đai học Thành Tây. Tạp chí Y học
Thực hành,
31. Trịnh Hoàng Quý (2014). Stress và các yếu tố liên quan ở điều
dưỡng tại bệnh viện Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh. Luận án
Chuyên khoa cấp II, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh
32. Trương Đình Chính, Ngô Tích Linh, Cao Ngọc Nga, et al (2009).
Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ sinh tỉnh Bà Rịa Vũng
Tàu năm 2009. Y học TP. Hồ Chí Minh,
idBai=3539.
33. Tsai YC, Liu CH (2012). Factors and symptoms associated with
work stress and health-promoting lifestyles among hospital
staff: a pilot study in Taiwan. BMC Health Serv Res, 12:199.
34. Vũ Ngọc Trinh (2013). Tỉ lệ điều dưỡng tại bệnh viện Chấn
thương chỉnh hình TP.HCM mắc stress và các yếu tố liên quan,
năm 2013. Luận văn Thạc sĩ y học, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ
Chí Minh.
35. WHO (2012). A Global Crisis World Mental Health Day. URL:
mh_paper_depression_wmhd_2012.pdf.
36. WHO (2016). Stress at the workplace. URL:
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33_38_stress_nghe_nghiep_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_dieu_duon.pdf